Chốt phiên giao dịch ngày 16/12/2022, VN-Index giảm 2,84 điểm xuống 1052,48 điểm. Khối lượng giao dịch đạt hơn 881,5 triệu đơn vị, tương ứng gần 15,509 tỷ đồng. Toàn sàn có 208 mã tăng giá, 195 mã giảm giá và 85 mã đứng giá.
 Ngày đăng: 19/12/2022

HNX-Index tăng nhẹ 0,04 điểm lên 212,99 điểm. Khối lượng giao dịch đạt hơn 104,4 triệu đơn vị, tương ứng hơn 1363,4 tỷ đồng. Toàn sàn có 92 mã tăng giá, 69 mã giảm giá và 64 mã đứng giá. UPCOM-Index giảm 0,4 điểm xuống 72,19 điểm. Khối lượng giao dịch đạt hơn 55,9 triệu đơn vị, tương ứng hơn 478,6 tỷ đồng. Toàn sàn có 177 mã tăng giá, 150 mã giảm giá và 120 mã đứng giá.

Nhà đầu tư nước ngoài mua ròng 265,3 tỷ đồng trên HOSE; 11,3 tỷ đồng trên HNX và chỉ bán ròng hơn 1 tỷ đồng trên UPCOM.

photo-1671371718520

2022 là một năm ảm đạm với nền kinh tế toàn cầu nhưng năm sau có thể còn tệ hơn, theo Bloomberg.

Lịch sử cho thấy các đợt tăng mạnh lãi suất của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ đẩy nền kinh tế lớn nhất thế giới vào suy thoái. Cùng với đó, giá khí đốt tại châu Âu tiếp tục tăng cũng sẽ không phải điều quá ngạc nhiên với nhiều người. Trong khi đó, chính sách chống dịch cứng rắn và thị trường bất động sản gặp khó khiến kinh tế Trung Quốc nguy cơ giảm tốc.

Trong một kịch bản cực đoan, tất cả điều đó có thể xảy ra cùng lúc. Khi ấy, sản lượng kinh tế toàn cầu sẽ bốc hơi khoảng 5.000 tỷ USD, theo dự báo của Bloomberg Economics.

Viễn cảnh ảm đạm đó đã xuất hiện dần trong năm 2022. Giai đoạn lãi suất thấp, nhu cầu tăng cao từ Trung Quốc, địa chính trị ít biến động là những yếu tố then chốt mang lại nhiều thập kỷ tăng trưởng và giá cả ổn định cho thế giới. Tất cả những biến số này đã biến mất năm nay, khiến lạm phát ở mức cao nhất trong nhiều thập kỷ và thị trường tài chính tổn thất đến hàng nghìn tỷ.

Nhưng vẫn có những hy vọng cho năm tới. Fed có thể "hạ cánh mềm" (thuật ngữ chỉ việc đưa lạm phát giảm về mục tiêu mà không làm gia tăng thất nghiệp nghiêm trọng). Thời tiết ấm áp có thể giúp châu Âu thoát khỏi suy thoái.

Trung Quốc có thể nới lỏng các biện pháp phong tỏa. Một số khả năng đó đã xuất hiện tuần trước, khi các thị trường tăng điểm do lạm phát của Mỹ thấp hơn dự kiến và các dấu hiệu về khả năng điều chỉnh biện pháp chống dịch của Trung Quốc.

Ngay cả khi những tín hiệu đó không thành hiện thực, những nhà đầu tư lạc quan vẫn có thể bắt đầu đặt cược vào sự phục hồi khi cho rằng lãi suất đã quá cao và tăng trưởng đã chạm đáy. Tuy nhiên, sau nhiều năm thiệt hại bởi bệnh dịch, xung đột và khan hiếm nguồn cung, theo Bloomberg, thật khó để lạc quan và nên lưu ý đến những những rủi ro sau đây:

Lãi suất của Fed

Lãi suất cơ bản của Fed dự kiến đạt 5% vào đầu năm 2023, tăng từ mức gần 0 vào đầu năm nay 2022. Việc Fed thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ nhất trong nhiều thập kỷ đã và đang làm tổn hại đến kinh tế Mỹ và thế giới. Nhưng vẫn còn nhiều tác động khác sắp xảy đến.

Với chi phí đi vay cao hơn, các ngành nhạy cảm với lãi suất từ bất động sản đến ôtô đang bị ảnh hưởng. Bloomberg Economics dự báo Mỹ suy thoái vào nửa cuối năm 2023. Hơn 2 triệu người Mỹ có thể sẽ mất việc.

Tình hình có thể tốt hơn nếu lạm phát biến mất nhanh chóng. Nhưng ngược lại, sẽ tệ hơn khi đại dịch khiến thị trường lao động rơi vào tình trạng khủng hoảng, đẩy "tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên" - mức độ thất nghiệp cần thiết để giữ lạm phát trong tầm kiểm soát - lên cao hơn mức đã có trong những năm gần đây.

Nếu điều đó xảy ra ở Mỹ, Fed có thể phải tăng lãi suất cao tới 6%, đẩy nền kinh tế lớn nhất thế giới vào một cuộc suy thoái dài hơn và sâu hơn. Khó khăn sẽ nhân rộng trên toàn thế giới, vì hầu hết quốc gia đều có chung vấn đề lạm phát và các ngân hàng trung ương cũng đang đi theo con đường tương tự Fed để khắc phục.

Thêm vào đó, Cuộc họp chính sách ngày 14/12, FED đã công bố đợt tăng lãi suất quy mô nhỏ hơn so với bốn cuộc họp trước đây, giữa lúc lạm phát của Mỹ đang có dấu hiệu "hạ nhiệt". Cụ thể, tại cuộc họp mới nhất vừa diễn ra, FED đã quyết định tăng lãi suất 0,5 điểm phần trăm, trong bối cảnh các quyết sách của ngân hàng này đang ngày càng tác động lớn đến nền kinh tế số 1 thế giới. Tuy nhiên, các quan chức của FED vẫn báo hiệu rằng cuộc chiến của họ nhằm kiềm chế lạm phát và giảm tốc nền kinh tế vẫn chưa kết thúc.

Mặc dù mức tăng lãi suất lần này thấp hơn so với mức tăng 0,75 điểm phần trăm tại cuộc họp trước đó, nhưng động thái mới nhất sẽ làm tăng thêm chi phí của nhiều khoản vay tiêu dùng và kinh doanh cũng như gia tăng nguy cơ suy thoái kinh tế.

Rủi ro nợ công

Khi tốc độ tăng trưởng cao hơn lãi suất, chi phí đi vay ít hơn. Vì vậy, các chính phủ đã tích cực vay nợ. Tổng nợ của nhóm G7 tăng từ 81% GDP năm 2007 lên 128% GDP năm 2022.

Nhưng giờ tăng trưởng đang chậm lại còn lãi suất thì đi lên, có nghĩa là chi phí đi vay ngày càng đắt đỏ trong lúc đến hạn trả nợ. Vì vậy, một số nền kinh tế lớn có thể rơi vào quỹ đạo nợ không bền vững, trừ khi họ thực hiện những điều chỉnh tài khóa khó khăn.

Các nhà đầu tư đang theo dõi Italy, nơi mức chi trả nợ (số tiền cần trả gồm gốc và lãi) dự kiến tăng lên 7% GDP vào năm 2030, từ 3% vào năm 2019. Italy có thể sẽ không vỡ nợ. Nhưng để tránh kết quả đó có thể cần một giải pháp khắc phục ở cấp độ châu Âu, thường là một quá trình không đơn giản.

Tại Anh, thị trường trái phiếu vừa thoát khỏi bờ vực sụp đổ khi bà Liz Truss từ chức Thủ tướng. Nhưng để giảm áp lực cho tài chính công và duy trì uy tín với các nhà đầu tư, Anh phải thắt lưng buộc bụng về ngân sách.

Ở Nhật Bản, Thống đốc ngân hàng trung ương Haruhiko Kuroda - kiến trúc sư của chiến lược lãi suất thấp - sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào tháng 4. Người kế nhiệm ông sẽ phải đối mặt với một lựa chọn khó khăn: tiếp tục giữ lãi suất thấp với rủi ro nội tệ lao dốc; hoặc theo chân Fed và gây bất ổn cho một trong những khối nợ lớn nhất thế giới.

Năng lượng cho châu Âu

Mảnh ghép cuối cùng của câu đố rủi ro toàn cầu là sự phân cực của thế giới, vốn đã gây ra những cái giá đắt đỏ cho châu Âu. Việc ủng hộ Ukraine đã khiến lục địa này rơi vào tình trạng thiếu khí đốt và giá điện tăng vọt. Bloomberg Economics dự báo, chi phí năng lượng cao và việc Ngân hàng Trung ương châu Âu tăng lãi suất sẽ đẩy khối này vào suy thoái, với GDP giảm 0,1% vào năm 2023.

Với một chút may mắn (thời tiết tốt) và kỹ năng tốt (các chính sách đưa khí đốt khan hiếm đến đúng nơi), châu Âu có thể tránh được suy thoái. Nếu không có cả hai, kinh tế châu Âu sẽ co lại tương đương với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Giá dầu thô đã giảm từ mức cao nhất gần 130 USD một thùng trong nửa đầu năm nay nhưng rủi ro từ các biện pháp trừng phạt mới với Nga, nhu cầu phục hồi ở Trung Quốc và việc cắt giảm nguồn cung của OPEC, có thể đẩy nó tăng trở lại vào năm sau, mở ra thử thách mới cho vấn đề năng lượng của châu Âu.

Tại Trung Quốc

Bloomberg Economics dự báo kinh tế Trung Quốc có thể tăng trưởng 5,7% cho năm 2023. Nếu mở cửa lại nền kinh tế sau dịch, động lực tăng trưởng sẽ bù đắp được cho lực cản từ bất động sản suy yếu. Tuy nhiên, liệu nước này sẽ có thay đổi chính sách chống dịch hay không vẫn chưa rõ.

Còn nếu tăng trưởng của Trung Quốc vẫn chậm lại thì sẽ gây ảnh hưởng khắp thế giới. Trong đó, chịu tác động lớn sẽ là các láng giềng của nước này và những nhà sản xuất hàng hóa lớn như Australia và Brazil.

Những ủi ro khác

Còn nhiều yếu tố tiềm tàng khác có thể ảnh hưởng đến kinh tế thế giới năm sau. Đầu tiên là mối quan hệ giữa các cường quốc. Cuộc đối đầu với Nga khiến châu Âu thiếu năng lượng là một ví dụ về sự rạn nứt địa chính trị.

Quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc cũng chưa ấm lại. Tổng thống Joe Biden đã giữ nguyên mức thuế do người tiền nhiệm Donald Trump áp đặt và tiến thêm một bước với lệnh cấm vận bán các chất bán dẫn tiên tiến. Mối quan hệ thương mại bị rạn nứt là một lực cản khiến tăng trưởng chậm lại ở cả hai nước.

Một rủi ro khác là thị trường bất động sản nhiều nơi đang dễ tổn thương. Dòng tiền thắt chặt đồng nghĩa với việc thị trường nhà ở trên toàn thế giới đã đến thời kỳ khủng hoảng.

Ngoài ra, còn có những rủi ro không nằm gọn trong bất kỳ nhóm nào đã nêu. Một biến thể mới, nguy hiểm hơn của Covid-19 sẽ là một đòn giáng mạnh. Lũ lụt gần đây ở Pakistan - ảnh hưởng đến 33 triệu người và đẩy nền kinh tế vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng - cho thấy tác động của các hiện tượng thời tiết cực đoan dự kiến trở nên thường xuyên hơn khi nhiệt độ toàn cầu tăng lên.

Nhưng cuối cùng, vẫn có một ưu điểm tiềm năng là tâm lý các nhà đầu tư. Nếu họ nhận ra được đỉnh lãi suất của Fed và đáy của tăng trưởng Trung Quốc, họ có thể thúc đẩy các đợt phục hồi của thị trường bằng cách đặt cược vào một tương lai tươi sáng hơn, ngay cả khi hiện tại có vẻ ảm đạm.

Vẫn có điểm sáng

Theo báo The Wall Street Journal, tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ đạt khoảng 2% trong năm sau 2023, giảm đáng kể so với năm 2022 và thấp hơn nhiều với mức bình quân 3,3% giai đoạn trước đại dịch. Tuy nhiên, với mức tăng trưởng này, sản lượng kinh tế trên đầu người sẽ vẫn tăng nhẹ.

Nhiều chuyên gia cho rằng, châu Á sẽ là khu vực tăng trưởng tích cực trong năm 2023 và trở thành "bệ đỡ" cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Các nền kinh tế thị trường mới nổi lớn của châu Á chiếm gần 3/4 mức tăng trưởng GDP toàn cầu vào năm 2023.

Một trong những nền kinh tế được kỳ vọng là Ấn Độ, dự đoán sẽ đạt tốc độ tăng trưởng cao thứ hai thế giới, ở mức 6,6% trong năm 2022 và 5,7% vào năm 2023. Đặc biệt, Saudi Arabia sẽ đạt tốc độ tăng trưởng số 1 thế giới.

Ấn Độ đang bước vào giai đoạn "vàng" cho tăng trưởng kinh tế nhờ nắm giữ tiềm năng tăng trưởng dài hạn, đó là nhân tố nhân khẩu học và lao động. Nhờ vậy, họ hưởng trọn lợi thế khi tỷ trọng đầu tư nước ngoài so với GDP ở Ấn Độ đã vượt qua Trung Quốc. Hiện Ấn Độ là quốc gia duy nhất ngoài Trung Quốc có thể tổ chức sản xuất quy mô lớn với chi phí rẻ. Nước này cũng đang ở vị trí sẵn sàng trở thành công xưởng của thế giới khi thực hiện các chính sách cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư và chi tiêu cho cơ sở hạ tầng. Chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế số, thị trường nước này cũng đạt giá trị 800 tỷ USD vào năm 2030, tức là tăng gấp 10 lần so với năm 2020.

Tại Việt Nam

Báo cáo của IMF tháng 10/2022 nhấn mạnh nhiều "cơn gió nghịch" với kinh tế thế giới và Việt Nam.

Kinh tế Việt Nam năm 2022 phục hồi mạnh mẽ ở hầu hết lĩnh vực, địa phương. Tăng trưởng kinh tế cả năm ước đạt 8%, trong khi lạm phát bình quân tăng hơn 3%, xuất khẩu tăng khoảng 12%, tiêu dùng cuối cùng tăng trên 10%, đầu tư tăng khoảng 9%...

Ba lý do chính là: Việt Nam kịp thời chuyển trạng thái chống dịch Covid-19, tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế trở lại bình thường; kiên trì dùng nhiều chính sách, giải pháp phục hồi kinh tế và ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát; và cuối cùng, các chỉ số tăng trưởng trên được đặt trong tương quan với mức nền khá thấp của năm trước.

Năm 2023, vẫn còn nhiều cơn gió thuận - nghịch từ bên ngoài cũng như nội tại, tác động tới kinh tế Việt Nam.

Cụ thể hóa các doanh nghiệp, PGT Holdings là một doanh nghiệp kinh doanh trong nhiều lĩnh vực với các công ty con trong nước và quốc tế (Myanmar, Nhật Bản). Tuy phát triển đa dạng ngành nghề nhưng hiện tại PGT đang tập trung vào lĩnh vực chủ chốt M&A và cung ứng nguồn lao động. Đây là hai lĩnh vực cần thiết khi các nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh đầu tư, chuyển dịch nhà máy sản xuất vào Việt Nam.

Cuối năm 2022 và đầu năm 2023 kỳ vọng vào sự hấp dẫn của thị trường Việt Nam sẽ thúc đẩy các thương vụ hợp tác mua bán, sáp nhập nở rộ nhanh chóng hơn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải đi tắt đón đầu, chuẩn bị sẵn sàng và nâng cao năng lực để tìm kiếm những cơ hội hợp tác hấp dẫn. Lúc này, PGT Holdings sẽ là đơn vị hỗ trợ nhất quán các hoạt động từ trung gian kết nối M&A bên mua và bên bán, cho đến hỗ trợ kinh doanh như PMI trong nhân sự pháp lý, kế toán. Từ đó, PGT sẽ làm cầu nối các doanh nghiệp trong và ngoài nước thuận lợi đi đến bàn ký kết hợp tác phát triển bền vững.

Nhờ xác định được chiến lược kinh doanh phù hợp trong từng giai đoạn, PGT Holdings đang là doanh nghiệp có tiềm lực "dài hơi" để đón nhận những cơ hội cũng như thách thức không ngừng trong bối cảnh hội nhập hiện nay.

photo-1671371722018

Thống kê giao dịch của mã PGT trêm sàn HNX.

Khép lại phiên giao dịch ngày 16/12/2022, mã PGT đóng cửa với mức giá 3,200 VNĐ.

Bài viết liên quan

M&A và IPO ( Từ 18/11 - 22/11): VN-Index ưu tiên quản trị rủi ro

Kết thúc phiên giao dịch 22/11, VN-Index giảm nhẹ 0,23 điểm (0,02%), về mức 1,228,1 điểm; HNX-Index…
 23/11/2024

Dòng chảy vốn đang có tín hiệu tích cực ở lĩnh vực nào?

Khép lại phiên giao dịch 21/11, VN-Index tăng 11, 79 điểm (0.97%) lên mức 1228,33 điểm. HNX-Index tăng…
 22/11/2024

Việt Nam dự báo trở thành điểm đến hàng đầu của chuỗi cung ứng

Kết thúc phiên giao dịch 20/11, VN-Index tăng 11,39 điểm (0,95%), lên mức 1216,54 điểm; HNX-Index tăng…
 21/11/2024

Thu hút các doanh nghiệp ngoại đầu tư xanh vào Việt Nam

Đóng cửa phiên giao dịch 19/11, VN-Index giảm 11,97 điểm (0,98%) còn 1205,15 điểm với 287 mã giảm, chỉ…
 20/11/2024

Góc nhìn đầu tư: VN-Index kỳ vọng tạo đáy

Kết thúc phiên giao dịch 18/22, VN-Index giảm 1,45 điểm (0,12%), về mức 1217,12 điểm; HNX-Index tăng…
 19/11/2024

Triển vọng lãi suất năm 2025

Khép lại phiên giao dịch 15/11, VN-Index giảm 13,32 điểm (1,08%) xuống 1218,57 điểm. Toàn sàn có 75…
 18/11/2024

M&A và IPO (Từ 11/11 - 15/11): Chọn chiến lược đầu tư khi “VN-Index điều…

Kết thúc phiên giao dịch 15/11, VN-Index giảm 13,32 điểm (1,08%), về mức 1218,57 điểm; HNX-Index đóng…
 16/11/2024

Diễn biến các dòng vốn trên thị trường bất động sản

Đóng cửa thị trường ngày 14/11, VN-Index giảm 14,15 điểm (1,14%), xuống 1231,89 điểm; VN30-Index dừng…
 15/11/2024

Người tiêu dùng Việt lạc quan về tăng trưởng kinh tế

Kết thúc phiên giao dịch 13/11, VN-Index tăng 1,22 điểm (0,1%), lên mức 1246,04 điểm; HNX-Index giảm…
 14/11/2024

Cuối năm nhóm ngành nào có nhu cầu tuyển dụng nhiều?

Để đáp ứng cho yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh trong giai đoạn cuối năm, hiện nhiều doanh…
 13/11/2024

Góc nhìn đầu tư: Xu hướng tích lũy vẫn tiếp diễn

Kết thúc phiên giao dịch 11/11, VN-Index giảm 2,24 điểm (0,18%), về mức 1250,32 điểm; HNX-Index giảm…
 12/11/2024

"Khẩu vị đa dạng" của các nhà đầu tư ngoại vào Việt Nam

Thị trường Việt Nam vẫn luôn là nơi có cơ hội tăng trưởng cao với dòng FDI bền vững, hạ tầng đang phát…
 11/11/2024